Đốc Trấn Nguyễn Mại Dùng Đức Cảm Hóa Nhân Dân

Nghe đọc

Nguyễn Mại (1655-1720) quê ở Hải Dương, làm quan dưới triều vua Lê Hy Tông. Sinh thời, Nguyễn Mại có sức khỏe, mưu lược, giỏi bắn cung và cưỡi ngựa, trộm cướp phải nín hơi, xét kiện sáng suốt, danh vọng rất cao.

Phẩm cách thanh cao, chính trực

Một hôm, Lễ Phiên đang bàn việc, con voi bị xổng, từ ngoài đi vào, ai cũng hoảng hốt bỏ chạy. Nguyễn Mại thần sắc không thay đổi, vẫn đứng trình bày công việc như thường.

Với phẩm cách thanh cao, chính trực, không sợ cường quyền, Nguyễn Mại chỉ trích cả lối sống xa hoa của chúa Trịnh. Chúa Trịnh dù có phần phật ý, vẫn kính nể và trọng dụng ông. Chúa Trịnh cũng là người giao cho ông trọng trách giữ thủy quân, sau làm Đốc trấn Cao Bằng rồi chuyển về trấn thủ Sơn Tây.

Dùng đức cảm hóa nhân tâm

Khi còn là đốc trấn Cao Bằng, Nguyễn Mại phải đối phó với nạn cướp từ Trung Quốc tràn sang. Qua tìm hiểu, ông thấy rằng đám giặc phỉ này chỉ là những nông dân nghèo vì quá đói khổ, túng quẫn cùng đường mới phải tràn qua biên giới đến Cao Bằng để cướp. Ông cho quân bắt lại rồi thả ra chứ không xét xử, cũng không làm công văn báo với quan lại vùng Quảng Tây, có nhiều lúc còn cung cấp lương thực cho họ để họ trở về. Ông cứ cho quân vây bắt rồi thả về nhiều lần như vậy. Cuối cùng đám giặc cướp nơi phương Bắc này cảm động trước ân đức của Nguyễn Mại mà không còn sang quấy nhiễu nữa.

Trong cuộc đời làm quan, nơi ông gắn bó lâu nhất chính là xứ Đoài (tức trấn Sơn Tây). Một lần phủ làm việc của ông bị cháy, đám cháy lan vào nhà tù nơi giam giữ toàn những kẻ đầu trộm đuôi cướp ở xứ Đoài. Ông không chần chừ sai người mở ngay cổng nhà ngục thả hết các tù nhân để đảm bảo an toàn tính mạng cho họ. Lúc này, mặc dù có cơ hội chạy trốn, nhưng các tù nhân như bừng tỉnh ngộ, họ cùng binh lính và người trong phủ dập tắt ngọn lửa. Sau đó bọn họ đều bảo nhau cùng trở lại trại giam không sót một ai cả.

Bạo lực, hình phạt, nhà tù chỉ có thể làm người khuất phục vì sợ hãi chứ không thay đổi được tâm của con người. Nhưng Nguyễn Mại đã dùng nhân nghĩa để thay đổi lòng người, khiến dù giặc cướp ở Cao Bằng, hay đầu trộm đuôi cướp ở xứ Đoài đều cảm động mà thay đổi cả.

Tài năng xử án

Cũng tại trấn Sơn Tây, hậu thế ngày nay mới biết đến tài năng xử án và xét đoán như thần của Nguyễn Mại. Nhiều câu chuyện xử án của ông được lưu truyền trong dân gian. Tiêu biểu như khi ông xử vụ án ăn trộm chuối ở làng Đông Ngạc (Hà Nội ngày nay). Một hôm, Nguyễn Mại có việc qua làng Đông Ngạc, chợt nghe thấy người đàn bà đang lớn tiếng chửi mất buồng chuối. Ông cho rằng xưa nay không thấy ai để ý đến việc điều tra xét xử tội ăn cắp vặt nên tệ nạn này mới có cơ hoành hành. Ông tiến đến hỏi người đàn bà và phát hiện vết chặt trên cây chuối còn mới. Đoán biết kẻ trộm chỉ ở quanh đây, ông liền gọi lý trưởng đến, ra lệnh tất cả người làng ra vét ao đình. Trong khi mọi người đang hì hục làm, ông bảo lý trưởng đi mua trầu cau, phát cho mọi người ăn trong lúc nghỉ giải lao. Sau đó, ông sai mọi người rửa tay thật sạch, lên sân đình ngồi nghỉ. Trong số các bàn tay đưa ra nhận trầu, Nguyễn Mại nhận thấy một người có vết đen dù đã rửa, liền ra lệnh bắt ngay người đó. Quả nhiên, đó là người ăn trộm chuối bởi nhựa dính trên tay, ngâm xuống bùn thì dính bẩn và không thể rửa sạch ngay được. Chỉ qua vài câu xét hỏi, người này phải cúi đầu nhận tội, trả lại buồng chuối đã lấy và chịu nộp phạt trước dân làng.

Khi làm quan ở Sơn Tây, Nguyễn Mại hay đi vi hành xuống các làng để xem xét cuộc sống của người dân. Một lần ông đến chợ Bảo Khám, tỉnh Bắc Ninh thì thấy một người đàn bà chửi tục, cứ nhè ba họ tên trộm nào đó mà chửi. Ông hỏi thì biết người đàn bà này bị mất trộm một chiếc màn. Ông cho người đến trói bà này lại trị tội nói tục ồn ào chốn đông người. Ông cho già trẻ gái trai trong làng đều đến để vả vào mặt bà này để cho chừa thói chửi tục. Người dân thương kẻ bị mất trộm nên chỉ vả nhẹ, riêng một phụ nữ lại ra tay rất mạnh. Nguyễn Mại lập tức cho bắt người phụ này nói: Ngươi chính là kẻ ăn trộm nên mới đánh người ta đau như thế”. Sau khi tra xét người này phải nhận tội đã lấy trộm, vì căm tức người đàn bà kia chửi mình nên mới ra tay đánh rất mạnh. Nguyễn Mại không chỉ bắt được kẻ trộm mà cũng trị tội cả người bị mất trộm vì hay chửi. Từ đó tiếng tăm của Nguyễn Mại bay đi rất xa.

Lần khác khi đang vi hành ở chợ Sơn Tây, ông thấy hai người đàn bà đang giành nhau một tấm lụa, ai cũng khẳng định tấm lụa là của mình. Ông liền vào phân xử. Ông nói rằng ai nói cũng có lý nên để công bằng thì cho xé đôi tấm lụa chia cho hai người. Sau đó một người cầm mảnh lụa vui vẻ rời đi, người còn lại khóc lóc kêu than. Ông lập tức cho giữ hai người lại rồi nói: Phàm chỉ có người làm ra tấm lụa mới biết trân trọng, tiếc công sức của mình. Còn chỉ biết hưởng công sức người khác thì mới hí hửng nhường ấy”. Sau khi tra xét người vốn cầm nửa tấm lụa hí hửng rời đi phải nhận tội, tấm lụa được đưa lại cho chủ của nó. Người dân nơi đây vẫn gọi đây là vụ án “xé đôi tấm lụa” vô cùng nổi tiếng lúc đó.

Lời bàn:

Bạo lực, hình phạt, nhà tù chỉ có thể làm người khuất phục vì sợ hãi chứ không thay đổi được tâm của con người. Nguyễn Mại đã dùng nhân nghĩa để thay đổi lòng người.  Đó mới là cách mang lại công bằng cho xã hội, bảo vệ lợi ích dân nghèo một cách bền vững nhất.  Người xưa nói: “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên” do vậy muốn xây dựng được đất nước và dân chúng ấm no thì việc thay đổi lòng người thông qua học tập, thông qua sự làm gương của các bậc Vua quan là thượng sách. Nguyễn Mại với những chiêu xử án của vị quan thanh liêm dùng nhân tâm thu phục lòng người được lưu danh sử sách đến muôn đời sau.