Đặng Huy Trứ (1825-1874) quê ở Hương Trà, Thừa Thiên – Huế. Ông đỗ tiến sĩ năm 22 tuổi, dạy học 8 năm, rồi ra làm quan, giữ các chức Thông phán Ty bố chánh Thanh Hóa, tri huyện Quảng Xương, tri phủ Thiên Trường (Nam Định), Bố chánh Quảng Nam, Hàn lâm viện Ngự Sử, Biện lý bộ Hộ, phụ trách Ty Bình Chuẩn ở Hà Nội. Ông từng đi Hương Cảng, Ma Cao, Quảng Châu… buôn bán, lo việc kinh tế cho triều đình. 15 năm làm quan, cả quan xử án, lẫn quan kinh tế, gia đình ông vẫn “Cơm vẫn rau dưa, canh chủ chốt”, “tường kẻ vách bung, nhà che mái dột”. Làm quan xử án, bọn quan tham mấy lần hối lộ ông, ông vẫn “một tấm lòng băng, chẳng bụi vương”. Hối lộ không được, chúng vu cáo ông, ông vẫn thanh thản.

Khi làm quan Ngự Sử, có viên quan tham tri bộ binh, cấp trên của ông, lại là người trong họ, cùng quê, có hành vi tham nhũng, bị ông vạch tội: “Cho dù thân thích bút không dung”. Vì việc làm khảng khái này mà trong chín tháng, ba lần ông bị giáng chức. Có lẽ chính vì thế mà Đặng Huy Trứ thấu hiểu tai họa tày đình của nạn tham nhũng, hối lộ đang ngày đêm làm ruỗng mọt cái rường cột nước nhà. Vạch tội tham nhũng chưa đủ, ông còn làm rất nhiều thơ nói về đạo đức người làm quan:
“Dân không chăm sóc chớ làm quan” (Cho cháo);
“Dân miếng ăn chẳng có. Ta ngồi ăn sao đành? (Miếng ăn gian nan);
“Dẫu người đời tham lam thành thói. Lòng son này giữ với cao xanh” (Dặn bảo đồng sự).
Lúc ông làm quan tri huyện Quảng Xương, dân bị mất mùa, đói kém. Vì thương dân, ông không chịu mộ lính ngay, nên bị phạt một năm không lương, vợ con trong quê ra chơi phải đi vay gạo ăn. Ông tâm sự: “Ngoài kia kêu khóc bao người đói. Cám cảnh dân đen những chạnh lòng” (Vay được ít gạo).
Quá bức xúc trước họa tham nhũng, hối lộ, về cuối đời, khi đang bệnh nặng, ông đã dốc hết trí tuệ và sinh lực để soạn cuốn sách dày 650 trang bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, gọi là “Từ thụ yếu quy”, rồi tự bỏ tiền túi ra in năm 1868, mong để lại cho đời sau làm bài học. Đây là cuốn sách có một không hai trong lịch sử nước ta, đúc kết 104 kiểu hối lộ, tham nhũng điển hình phổ biến trong xã hội như sĩ tử đi thi hối lộ cầu được đỗ, quan lại xảo quyệt hối lộ, cầu được tiến cử, quản cơ hối lộ để được ra coi cửa quan, v.v…
Lời bàn:
Tìm hiểu cuộc đời và đọc trước tác của Đặng Huy Trứ, ta càng thêm kính trọng và cảm phục ông. Tuy là mệnh quan triều đình, nhưng từ việc làm đến lời nói đều nhất quán với cái tâm, cái đức của bậc thức giả. Ông quan niệm rằng bổn phận của người làm quan trước hết phải vì dân: “Dân không chăm sóc chớ làm quan” và “Vì dân, bệ ngọc giải oan khiên…”. Không những thế, ông còn cho rằng:
“Mình thiệt, dân lợi, dân gắn bó
Đẽo dân, mình béo, dân căm hờn
Hờn căm, gắn bó tùy ta cả…”
Nếu như Đời Tống có Bao Công – Bao Thanh Thiên được người đời ca tụng thì Quan Ngự Sử Đặng Huy Trứ có tinh thần và sự mẫu mực không kém. Ông được coi là Bao Thanh Thiên của Việt Nam.
