Nghe đọc

Cao Bá Quát (1809-1854) tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Thiên, là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là văn tài xuất chúng của nước ta vào thế kỷ XIX. Ngay từ thuở nhỏ, Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng.

Sau này khi lớn lên, vào Huế làm quan ở Bộ Lễ, Cao Bá Quát vẫn giữ tính ngang tàng. Ông rất căm ghét thói a dua, nịnh bợ của quan lại. Ngược lại, với người dân, ông luôn nhìn bằng ánh mắt bao dung, sẻ chia.

                              Tự Đức vốn là ông vua hay chữ bậc nhất triều Nguyễn, rất thích trổ tài thơ phú, cũng rất tự phụ về tài năng của mình. Một hôm vua Tự Đức nghĩ hai câu đối:

Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân

Dịch nghĩa:

Con phải nối nghiệp cha

Bầy tôi phải báo đền ơn vua

Vua lấy làm đắc ý với hai câu đối này nên sai viết treo ở điện Cần Chánh và khoe với bá quan. Các quan trông thấy đều nức nở tán thưởng. Riêng Cao Bá Quát khi đọc xong cũng gật gù to tiếng khen: “Tối hảo! Tối hảo!” (Rất tuyệt! rất tuyệt!), xong quay ra chỗ khác lẩm bẩm: “Nhưng mà cang cường, điên đảo!”.

Chuyện tới tai Vua Tự Đức. Vua giận lắm đòi vào hỏi nguyên do. Cao Bá Quát liền giải thích: “Muôn tâu bệ hạ! Câu trên chữ “tử” đứng trên chữ “phụ”, vậy là con trên cha. Câu dưới chữ “thần” đứng trên chữ “quân”, vậy là tôi trên Vua. Rõ ràng phụ tử, quân thần điên đảo. Hơn nữa, hai chữ “phụ” và “tử” lại viết trước hai chữ “quân” và “thần” cũng đi ngược tôn ti, trật tự. Như thế, không cang cường, điên đảo là gì ạ?” (câu đối được viết theo

thứ tự từ trên xuống dưới và từ phải sang trái).

Cao Bá Quát giải thích đúng lý nên Vua không bắt tội được. Vua bảo chữa, Cao Bá Quát liền đọc:
                                              Quân ân, thần khả báo
                                              Phụ nghiệp, tử năng thừa.

Chỉ đảo ngược thứ tự hai câu và vị trí của chữ trong các câu, Cao Bá Quát đã chỉnh hai câu đối của vua theo đúng trật tự trong cương thường. Vua phải chịu rằng chữa như vậy là hay, cương thường được đảm bảo mà ý tứ của Vua cũng được toàn vẹn.

Lời bàn:  

Người xưa nói: Làm bạn với Vua như làm bạn với hổ. Khi Vua có lỗi, bề tôi rất ít người dám khuyên can hay nói thẳng vì sợ mất lòng Vua và phần khác sợ mất mạng. Vua Tự Đức hay chữ nhưng đôi khi tự phụ, ông đã từng nói: “Trẫm không đi thi, nếu đi thi chắc chắn đỗ Trạng Nguyên”. Cho nên, Cao Bá Quát luôn muốn nhắc khéo Vua thông qua những áng văn chương một cách khẳng khái. Một câu đối ngược về quân thần phụ tử nhưng cả triều thần đều a dua không ai dám nói chê vì đó là của Vua. Duy chỉ có Cao Bá Quát, khí phách không ngại nói thật nói thẳng. Đó là bổn phận của bề tôi, phải khuyên can Vua. Mặc dù sau này do bất mãn với triều đình ông cáo quan về quê, nhưng những giai thoại ông để lại cho hậu thế là bài học cho những người làm quan, tận bổn phận khuyên can Hoàng thượng.