Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890) sinh ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (tức 7 tháng 5 năm 1832). Quê hương của ông thuộc làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ông vốn họ Ngô, dòng dõi Ngô Quyền, nhưng do ông nội ông đổi sang họ ngoại là họ Nguyễn nên sử sách thường gọi ông là Nguyễn Quang Bích.
Ngay từ nhỏ Nguyễn Quang Bích nổi tiếng thông minh học giỏi nhất trong vùng, ông là học trò của tiến sĩ Doãn Khuê (1813 – 1878). Năm 1858 ông đỗ tú tài, năm 1861 đỗ cử nhân và được bổ làm Giáo thụ phủ Trường Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm 1869, ông đỗ Hoàng giáp và được cử làm Tri phủ tại phủ Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ ngày nay), rồi làm Tri phủ Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa ngày nay), những năm tiếp sau ông làm các chức vụ: Án sát Sơn Tây, Tế tửu Quốc Tử Giám Huế, Án sát tỉnh Bình Định.

Bận lo toan việc nước nhưng trong gia đình ông là người con hiếu thảo với cha mẹ. Có một câu chuyện do cụ Hoàng Khắc Nhượng (Thái Bình) kể lại:
Năm 1869, Nguyễn Quang Bích đỗ Hoàng Giáp, trong buổi yến tiệc vua mở để trọng đãi các Tân khoa, nét mặt mọi người đều rạng rỡ hân hoan. Riêng Nguyễn Quang Bích tuy được vua ban mũ áo, được cưỡi ngựa xem hoa ở vườn thượng uyển, vinh dự không kể đâu cho xiết thế mà đôi mắt của vị Hoàng Giáp luôn rưng rưng ngấn lệ. Người học trò đi theo là Hoàng Loan thấy lạ mới hỏi: “Đang cuộc vui hiếm hoi thế này cớ sao Thầy lại rơi lệ?”
Nguyễn Quang Bích đáp: “Ta nhớ song thân đã lo cho ta hết lòng ăn học nên người. Nay ta đỗ cao, mẹ ta lại khuất núi rồi ta vui một mình sao đặng!”.
Người học trò Hoàng Loan rất xúc động trước tình cảm của Thầy liền làm bài thơ:
Đình nguyên hoàng giáp Nguyễn Ngô công
Trung hiếu lưỡng toàn phẩm tối long
Y cẩm khan hoa vinh thủ nhật
Tư thần thuỳ lệ vô cảm trung
Nghĩa là:
Đỗ đầu Hoàng giáp cụ Ngư Phong
Đạo nghĩa vẹn tròn hiếu với trung
Mặc gấm xem hoa vinh hiển thế
Nhớ công cha mẹ lệ đôi dòng.
Năm 1875, ông được vua Tự Đức giao cho duyệt bộ sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, cũng trong năm triều đình mở doanh điền Hưng Hóa (Phú Thọ) vừa khai hoang vừa phòng vệ núi rừng Tây Bắc, Nguyễn Quang Bích được cử làm Chánh sơn phòng sứ. Năm 1876 kiêm thêm chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa. Khi làm quan, Nguyễn Quang Bích luôn tỏ ra là một vị quan thanh liêm, có đức độ nên được nhân dân các địa phương rất ngưỡng mộ và thường gọi ông là “Hoạt phật” (Phật sống). Nguyễn Quang Bích còn nổi tiếng với câu trả lời đầy khí khái khi quân địch dụ hàng mua chuộc ông: “Thắng mà sống là nghĩa sỹ triều đình, chẳng may thua mà chết cũng làm quỷ thiêng giết giặc!”.
Năm 1890, Nguyễn Quang Bích chuyển bệnh rồi mất. Thi hài ông được chôn cất trên ngọn núi Tôn Sơn (căn cứ của nghĩa quân) thuộc xã Mộ Xuân, huyện Yên Lập, tỉnhPhú Thọ.
Lời bàn:
Tâm cảnh của người xưa lúc nào cũng để ơn đức của cha mẹ trong lòng. Khi Ông được vua ban cho mũ áo, được ngắm vườn thượng uyển, được vinh quy bái tổ mà nhớ đến cha mẹ, mình có ngày nay không phải là do công lao khó nhọc của cha mẹ dạy dỗ sao? Không được cùng cha mẹ hưởng vinh hoa phú quý thì có vui gì? Nhìn cảnh vui mà tuôn lệ nhớ cha mẹ, thật là xưa nay hiếm.

 Nghe đọc
 Nghe đọc