Trần Hưng Đạo (1228 – 1300), còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Ông nguyên có tên khai sinh là Trần Quốc Tuấn.
Quân Mông Cổ đã khuấy đảo suốt từ Á sang Âu, biết bao quốc gia nghiêng đổ, biết bao vua chúa các nước bị giết, bị cầm tù. Vậy mà ba lần đoàn quân khổng lồ ấy xâm lăng Đại Việt thì cả ba lần chúng đều đại bại.

- Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Cổ lần thứ nhất (1258)
Hốt Tất Liệt đem quân sang xâm lược nước ta lần thứ nhất. Quân dân Đại Việt đã dùng chiến thuật chiến tranh du kích, thực hiện kế sách “vườn không, nhà trống” để tiêu hao dần sinh lực của giặc. Chờ cho chúng quẫn bách về lương thực, khốn khổ vì không hợp thủy thổ, vua Trần Thái Tông chỉ huy các tướng lĩnh tiến về giải phóng Thăng Long, quân ta đã giành thắng lợi. Quân Mông Cổ bị đánh bật khỏi thành Thăng Long.
2. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ hai (1285)
Hốt Tất Liệt sai con trai là Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta, ngoài ra còn lệnh điều thêm 10 vạn quân do Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An nhằm đưa nước ta vào thế bị đánh cả hai đầu.
Hội nghị Diên Hồng
Tháng Chạp năm Giáp Thân (1/1285), Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông xuống chiếu mở một cuộc hội nghị hết sức quan trọng ở điện Diên Hồng, sử gọi đó là hội nghị Diên Hồng. Tham dự hội nghị này là các vị bô lão, đại diện cho nhân dân cả nước. Thượng hoàng đích thân ban yến và hỏi các vị bô lão là: “Nên hoà hay nên đánh?”.
Một đời thân phận thấp hèn, tay bùn chân lấm, nay bỗng dưng được triều đình mời vào tận hoàng cung để bàn quốc gia đại sự, tinh thần của các vị bô lão phấn chấn khác thường. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 44a) chép: “Các cụ bô lão đều nói “đánh!”, muôn người cùng một tiếng, muôn lời như bật ra từ một miệng”.
Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần đi đã!
Sử sách cũng chép tiếp rằng tháng 12 năm Giáp Thân (1284), thấy thế giặc rất mạnh, vua Trần Nhân Tông lại ướm hỏi vị tư lệnh chiến trường của mình là Trần Quốc Tuấn: “Thế giặc to như vậy mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?”. Vua lập tức nhận được câu trả lời rằng: “Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng tôn miếu, xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi hãy hàng!”.
Trước ý chí sục sôi của toàn dân tộc, quyết không để mất nước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cùng các tướng lĩnh khác một lòng đánh giặc. Chiến sự vô cùng quyết liệt.
Quân Nguyên thất bại nặng nề. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho quân lính khiêng chạy qua biên giới mới thoát chết. Tướng giặc là Trương Hiển phải đầu hàng. Toa Đô bị chém đầu tại trận. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê lấy thuyền con trốn chạy ra biển thoát chết.
Quân dân Đại Việt đã tiêu diệt và quét sạch 60 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ hai kết thúc thắng lợi hoàn toàn.
3. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ ba (1287 – 1288)
Sau hai lần xâm lược nước ta thất bại nhục nhã, vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vô cùng căm giận, huy động năm mươi vạn quân, chia làm ba đạo tiến vào nước ta. Lần này, Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông lại sắc phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với tài quân sự của mình cùng với các tướng lĩnh đã tạo nên trận đánh trên sông Bạch Đằng lịch sử, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giữa sông. Khi nước thủy triều lên thì quân ta đem binh ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc đi vào chỗ đóng cọc. Đúng lúc thủy triều xuống thì quân ta quay binh lại hết sức mà đánh. Chiến thắng Bạch Đằng giang là chiến thắng vĩ đại nhất trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ ba.
Như vậy, nước Đại Việt ta dưới triều Trần luôn muốn giữ hòa bình, hữu nghị để xây dựng đất nước, nhân dân được lạc nghiệp, an cư, sống trong cảnh thái bình, hạnh phúc. Nhưng quân xâm lược đã không để ta yên, lúc nào chúng cũng muốn thôn tính nước ta. Cả dân tộc ta đoàn kết một lòng đánh giặc cứu nước. Quân dân ta quyết đánh và đã chiến thắng cả ba lần, lần sau oanh liệt hơn lần trước.
Lời bàn:
Nhà thơ Khiêm Đức có bài thơ ca ngợi sự tài trí, lòng yêu nước, gương trung liệt, một lòng quyết chiến chống quân xâm lược của Trần Hưng Đạo như sau:
Bình sanh làm tướng chết làm thần
Công nghiệp sáng ngời vạn tiết xuân
Lấy máu Toa Đô đền nợ nước
Nương dòng Vạn Kiếp rửa thù dân
Sông Đằng bến cũ đâm thuyền địch
Đất Việt tôi trung gánh bụi trần
Hưng Đạo quyền cao nhưng chẳng lạm
Thác rồi hiển Thánh lại thi ân.