Nguyễn Trãi “Việc Nhân Nghĩa Cốt Ở Yên Dân”

Nghe đọc

Năm lần vào thành Đông Quan khuyên quân Minh đầu hàng

Khi tướng Liễu Thăng của quân Minh tử trận, các cánh quân cứu viện đều bị đánh bại, thế giặc yếu, đánh giặc bây giờ rất dễ dàng, nhưng với tấm lòng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi muốn quân Minh đầu hàng để bớt hao tổn nhân mạng hai bên. Ông đã nhiều lần viết thư cho tướng nhà Minh mong đầu hàng, thậm chí ông một mình năm lần vào thành Đông Quan khuyên quân Minh đầu hàng sẽ được tha chết và cấp đầy đủ ngựa thuyền cùng lương thực cho về nước. Trước sự kiên nhẫn và tấm lòng đại nghĩa của Nguyễn Trãi, 10 vạn quân Minh đã đầu hàng và được cấp đầy đủ ngựa thuyền cùng lương thực về nước. Quân Minh thua trận dù tủi hổ nhưng phải tâm phục khẩu phục, sau này không còn nghĩ đến chuyện Nam tiến nữa. Đó là kết quả có được nhờ dùng nhân nghĩa để đối ngoại, là việc làm của bậc Thánh nhân do tư tưởng “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của Nguyễn Trãi.

Thượng thư nhà Minh đưa thi hài Nguyễn Phi Khanh về nước

Một năm sau khi quân Minh đầu hàng thì ở Trung Quốc, Nguyễn Phi Khanh cũng qua đời. Ông mất nhưng hẳn rằng cảm thấy hài lòng và tự hào vì đứa con hiếu thảo của mình đã làm đúng lời dặn dò của mình khi xưa, không chỉ giành lại được giang sơn xã tắc mà còn thể hiện tấm lòng đại nghĩa tha chết cho quân địch. Uy danh của việc làm đại nghĩa ấy vang xa đến tận Trung Quốc. Khi Nguyễn Phi Khanh mất, Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc tìm cách giúp đưa hài cốt Nguyễn Phi Khanh về nước chôn cất tại núi Đá Bạc. Người đời sau gọi núi đó là núi Báo Ân hay núi Báo Đức, hoặc còn gọi là núi Báo Vọng, thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương ngày nay.

Sở dĩ Hoàng Phúc làm việc này là vì đại ân đại đức của Nguyễn Trãi. Năm 1427 Hoàng Phúc bị bắt và thành tù binh của Nguyễn Trãi, nhưng được Nguyễn Trãi đối xử rất tốt, sau đó lại được cấp đầy đủ lương thực cùng 10 vạn quân về nước. Không chỉ Hoàng Phúc mà cả quân tướng nhà Minh đều rất cảm kích ơn nghĩa này. Do vậy hài cốt của Nguyễn Phi Khanh được đưa về nước mà hầu như không gặp trở ngại nào.

Vị tướng thẳng thắn, cương trực

Khi lấy xong thiên hạ, Lê Lợi lên ngôi báu, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Một hôm, vua Thái Tổ cho vời Nguyễn Trãi đến hỏi về việc yên dân mở nước và xử lý đám quan lại tham ô lười biếng. Nguyễn Trãi tâu: “Hòa thuận trong nhà nhớ giữ một lòng thân ái, thương yêu dân chúng hãy làm những việc nhân đức, đừng vì ơn riêng mà thưởng bậy, chớ vì giận mình mà phạt bừa; đừng thích tiền của mà xa xỉ bừa bãi, đừng gần thanh sắc mà suồng sã hoang dâm, cho đến việc dùng nhân tài nghe can gián, ra một chính sách một mệnh lệnh, phát một lời nói, một việc làm đều phải đúng mực, hợp với lẽ thường, có thế, trên mới đáp ứng được ý trời, dưới mới thỏa mãn được lòng dân, quốc gia mới yên ổn bền vững lâu dài. Mến người có nhân là dân, mà như con sông chở thuyền và lật đổ thuyền cũng là dân. Giúp người có đức là trời, nhưng khó tin và rất hay thay đổi cũng là trời. Dám mong bệ hạ siêng năng giữ gìn những việc kính trời chăm dân, chớ nên xem thường. Phàm người có chức vụ coi quân trị dân đều phải dùng phép công bằng, làm việc cần mẫn, hết lòng thờ vua, hết sức chăm dân, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng, bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc nước như công việc của chính mình lấy điều lo của dân làm điều lo cho bản thân. Xin bệ hạ xuống chiếu răn bảo nghiêm cấm; nếu ai không nghe không sửa ấy là kẻ đó tự huỷ diệt mình”. 

Lê Thái Tổ rất vừa ý, thầm khen Trãi thẳng thắn cương trực. Nhưng bấy giờ Vua hay ốm đau mệt mỏi, đám quan tham thâu tóm quyền hành lập vây cánh kiếm lợi. Nguyễn Trãi biết thế không thể đừng được, mới dâng biểu xin cáo quan lui về Côn Sơn (Hải Hưng) sống cuộc đời thanh đạm, giản dị.

Vụ án vườn vải

Nguyễn Trãi có người vợ trẻ tên là Nguyễn Thị Lộ, là người có nhan sắc, nết na, lại nổi danh về tài văn học nên Nguyễn Trãi đặc biệt yêu dấu. Lê Thái Tông – con của Lê Thái Tổ khi đến tuổi trưởng thành mến tiếng Nguyễn Thị Lộ nên sai vời vào cung, cho làm Lễ nghi nữ học sĩ, luôn cho đi theo bên mình và thường đem nhiều việc ra bàn bạc cùng.

Năm Ðại Bảo thứ nhất, hai bà vợ của vua Lê Thái Tông là Nguyễn Phi và Ngọc Dao cùng sinh con trai trong một năm, lo sợ con mình mất quyền nối ngôi báu nên Nguyễn Phi vu cáo hãm hại Ngọc Dao bắt tội đi đày. Nguyễn Trãi và vợ thấy việc oan trái thì tìm cách giải bày với Hoàng thượng gỡ oan cho người ngay. Việc ấy đến tai bà Nguyễn Phi. Bà này giận lắm nhưng nén lòng chờ dịp báo thù. 

Hai năm sau, năm Ðại Bảo thứ ba (1442), Lê Thái Tông rời Ðông Kinh ngự giá đi duyệt võ ở Chí Linh (Hải Hưng). Tiện đường, Vua ghé lại vãn cảnh Côn Sơn, nhân thể qua thăm vị khai quốc công thần. Nguyễn Trãi cung kính đón rước xa giá theo đúng lễ Vua tôi. Thấy vị lão thần đầu tóc bạc phơ mà tinh thần còn quắc thước, Vua ướm hỏi xem ông còn muốn ra gánh vác việc triều chính. Nguyễn Trãi tâu: “Chỉ sợ Thánh thượng không dùng. Trãi này dẫu chết dám rời lòng son”.  Vua Thái Tông rất đẹp lòng bèn cho nhận chức cũ. Các trung thần và Lễ nghi nữ học sĩ đi theo hộ giá đều đến chúc mừng. Sau đó, Vua rời xa giá lên đường. Nguyễn Trãi theo xe loan đưa tiễn mấy dặm. Vua truyền bảo mấy lần, mới chịu lui về, sửa soạn lên kinh nhậm chức.

Dọc đường, Vua dừng xe nghỉ đêm ở Lệ Chi viên, tục gọi là Trại Vải, Bắc Giang. Thình lình nửa đêm, Vua bạo bệnh băng hà. Các quan hộ giá và Nguyễn Thị Lộ mật rước thi hài Vua về kinh. Tin dữ ấy loan ra. Triều đình lập Ðông cung thái tử Bang Cơ lên nối ngôi, tức vua Lê Nhân Tông. Bấy giờ, Nhân Tông mới hai tuổi. Bà Nguyễn Phi làm Hoàng Thái hậu, trông nom việc nước thay con. Bà vẫn còn nhớ mối thù ngày xưa nên cho quyền thần bắt Nguyễn Thị Lộ kết tội giết vua. Nguyễn Thị Lộ không chịu nổi nhục hình, đành nhận xằng vậy. Thế là Thái hậu bèn truyền chỉ cho các lực sĩ hỏa tốc về Côn Sơn tróc nã Nguyễn Trãi đóng cũi giải về. Lực sĩ gươm tuốt trần điệu Nguyễn Trãi đến trước sân đình. Lúc sắp bị chém, Nguyễn Trãi ứa nước mắt, ngửa mặt lên trời kêu lớn: “Con xin chắp tay lạy Thày, lạy Cha. Chẳng may con mắc oan nên Thày, Cha phải chịu nhục lây, mà con cháu cũng bị tàn hại. Lòng này xin trời đất soi xét!”. Ðoạn, ung dung chịu chết. Ai nghe thấy đều thương xót không cầm được nước mắt. Sau này, con bà Ngô phi Ngọc Dao lên làm Vua, tức Vua Lê Thánh Tông, biết rõ tấm lòng trung nghĩa ngay thẳng của Nguyễn Trãi nên xuống chiếu rửa oan, truy tặng ông làm Thái sư Tuệ quốc công và cấp cho con cháu một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng. 

Lời bàn:

Cổ nhân có câu “bách thiện hiếu vi tiên”, nghĩa là trăm điều thiện thì hiếu là đứng đầu, nếu không có hiếu thì cũng không còn tiêu chuẩn làm người nữa. Nguyễn Trãi nổi bật trong sử Việt như một tấm gương về chữ “hiếu” khi làm đúng lời dặn dò của cha, không chỉ giành lại được giang sơn mà còn thể hiện tấm lòng đại nghĩa với quân địch, một lòng đóng góp công sức xây đựng đất nước, uy danh vang mãi về sau.