Nguyễn Tri Phương:” Nếu Ta Chỉ Gắng Lay Lắt Mà Sống, Sao Bằng Thung Dung Chết Vì Việc Nghĩa”

Nghe đọc

Nguyễn Tri Phương sinh năm 1800, tên tục là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên. Là người con của làng Đường Long (Chí Long), thuộc Thừa Thiên – Huế ngày nay. Ông sinh trưởng trong một gia đình lao động, làm ruộng và nghề thợ mộc. Bằng ý chí vượt khó và tài năng sẵn có, ông đã dựng nên nghiệp lớn.

Năm 1823, ông được vua Minh Mạng bổ nhiệm làm Điển Bộ. Năm 1832, được đứng trong hàng ngũ Phái bộ đàm phán thương mại với Trung Hoa. Thời gian sau, ông lên làm Thị lang Bộ Lễ, bị dèm pha, ông từng bị cách chức rồi được phục chức. Thế nhưng, dường như  ý trời đã để ông bén duyên với binh nghiệp. Lúc 35 tuổi, Nguyễn Tri Phương được cử vào Gia Định với trọng trách dẹp loạn, khai hoang mở mang lãnh thổ. Đến năm 1840, vua Minh Mạng cho ông chức Tuần phủ Nam Nghĩa với nhiệm vụ quản lý công tác phòng thủ cửa biển Đà Nẵng. Đây là một trong những cửa biển trọng yếu và nhạy cảm, mang ý nghĩa sống còn, vị trí ngay gần kinh thành Huế. Sau đó, ông tiếp tục Nam tiến, làm Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long, Định Tường), rồi Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Cả hai lần ông đều phải gánh nhiệm vụ dẹp tan giặc cướp từ bên ngoài tới, bình ổn phía Tây đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ những chiến tích huy hoàng, Thiệu Trị đã phong tặng mỹ hiệu “An Tây Trí Dũng Tướng”, cùng tước Tráng Liệt Tử. Công trạng của ông được khắc lên bia Võ Miếu tại cố đô.

Cái tên Nguyễn Tri Phương cũng là do vua Tự Đức ban tặng bởi lòng quý trọng tài năng của ông. Tên ấy cũng xuất phát từ câu “Dõng thả tri phương”, tức là dũng mãnh mà lắm mưu chước. Khi đã 53 tuổi, ông được phong chức Kinh Lược Sứ Nam Kỳ, tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, lập đồn điền giúp đời sống người dân miền sông nước Cửu Long trở nên khấm khá hơn.

Lòng trung nghĩa của vị tướng già

Khi vua Tự Đức hỏi ông: “Thế trận khó, nên hòa hay là chiến trước quân Pháp?”. Nguyễn Tri Phương bộc bạch khí tiết mà thể hiện tấm lòng tận trung với nước: “Người Pháp đã giỏi về binh cơ, lại thêm tàu mạnh súng hay, mình thủ thì hơn chớ đánh thì bất lợi. Nhưng đạo làm tôi phải trung với nước. Như kẻ hạ thần này nếu ra hòa với người ta, thật lấy làm nhục lắm! Còn đánh mà không hơn được lại là cái tội ngu thần. Vậy xin theo ý Hoàng thượng sở định. Ngu thần xin cúi mình hết sức cho đến chết thì thôi, chớ có đâu dám tiếc thân già.”

Sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, Đại úy Garnier dẫn đám quân ô hợp tấn công Hà Nội lần thứ nhất. Chỉ có hơn 300 lính cùng với 2 pháo thuyền, nhưng chúng đã chiếm được Bắc Thành. Cửa Nam bị bắn vỡ. Hơn 2.000 quân lính triều đình với vũ khí thô sơ là gươm, giáo đã thua trận trước vũ khí hiện đại từ phương Tây. Trong trận này, Nguyễn Lâm – con trai Nguyễn Tri Phương tử trận, còn ông thì bị trúng đạn và rơi vào tay Pháp. Theo sử ghi chép lại, lúc đó mặc dù bị một vết thương ở bụng nhưng vị tướng già 73 tuổi vẫn leo lên đầu thành để phấn chấn binh lính và một viên đạn đã bắn trúng ông.

Theo “Đại Nam thực lục”, người Pháp đem cháo và thuốc cho ông, ông đều phun nhổ cả ra, tuyệt thực, quyết không khuất phục quân thù. Sau một tháng can trường thủ tiết như vậy, Nguyễn Tri Phương qua đời ở tuổi 73 với câu nói để đời: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lay lắt mà sống, sao bằng thung dung chết vì việc nghĩa!”.

Lời bàn:

Lịch sử đã ghi tên tuổi Nguyễn Tri Phương, một vị quan văn của triều Nguyễn. Ông là người tận tụy trong công việc, trung nghĩa với quốc gia đến hơi thở cuối cùng. Xã tắc hưng vong – Thất phu hữu trách, làm quan và làm con dân thời loạn lạc, đất nước in bóng quân thù, tinh thần quật cường ấy của ông càng trở nên ngời sáng. Ngay cả sử gia nước ngoài Paulin Vial cũng đã đánh giá ông là một tấm gương “đức hạnh vô biên khó tìm thấy ở Á Châu”.