Nguyễn Hiền sinh năm 1234 tại làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường (nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông thi đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi, trở thành trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam,

Thần đồng từ nhỏ
Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ. Bà mẹ đã cho ông theo học sư cụ chùa Hà Dương ở làng Dương A. Tương truyền, lúc đầu vào học sư mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc ngay được như người đã từng đi học rồi, sư cụ lấy làm lạ. Một đêm, sư cụ nằm mộng thấy Phật quở rằng: “Trạng nguyên mỗi lần vào chùa thường nghịch ngợm. Sao nhà ngươi không răn đe, ngăn chặn!“. Sư tỉnh dậy, đốt đuốc khắp chùa thấy sau lưng các pho tượng đều có viết chữ “phạt 30 roi“, riêng hai pho hộ pháp ghi “phạt 60 roi“. Sư nhận ra ngay chữ của Hiền. Một hôm, sư lên lớp bèn lấy một câu trong sách: “Kính quỷ thần mà phải lánh xa” mà dặn Hiền rằng: “Phật tức quỷ thần, trò không được nhạo báng”. Hiền liền nhận lỗi và tự lau sạch những chữ mình đã viết. Từ đó, Hiền càng chăm chỉ học tập, học đến đâu nhớ đến đấy, xuất khẩu thành chương.
Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh là “thần đồng”.
Đỗ Trạng nguyên nhưng chưa được bổ nhiệm
Đến năm thi Đinh Mùi (1247), Nguyễn Hiền dự kỳ thi đình với bài phú “Áp tử từ kê mẫu du hồ phú” (bài phú về vịt con từ giã mẹ gà đi chơi hồ nước). Vua hỏi, Hiền trả lời trôi chảy cả văn lẫn ý, vua khen ngợi và hỏi:
– Học thầy nào?
Nguyễn Hiền trả lời:
– Thần không phải là người sinh ra đã biết, nhưng khi có một đôi chữ không biết thì hỏi thầy chùa.
Vua lại nói:
– Vì còn nhỏ mà Trạng nguyên ăn nói chưa biết lễ, cần cho về nhà học lễ 3 năm mới bổ dụng.
Vì thế trạng Hiền chưa được ban áo mão.
Xâu chỉ qua vỏ ốc
Nguyễn Hiền trở về quê nuôi dưỡng mẹ, ngày ngày đọc sách. Hiền vẫn rất ham chơi, thường lúc rỗi rãi vẫn cùng trẻ làng chơi khăng, thả diều… Một lần, triều đình tiếp sứ Trung Hoa, viên sứ đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó bằng một sợi chỉ mảnh. Được như vậy y mới chịu vào thành. Ấy là viên sứ muốn thử tài người Nam ra sao. Vua truyền cho các quan tìm cách xâu thử, nhưng vị nào cũng lè lưỡi, lắc đầu. Bấy giờ vua chợt nghĩ đến Trạng nguyên trẻ Nguyễn Hiền, bèn cho triệu Trạng về kinh.
Viên quan được giao việc đến quê gặp Trạng thì gặp ngay một lũ trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng, thấy trong đó có một cậu bé mặt mũi khôi ngô đang bày cho lũ bạn đắp một con voi bằng đất mà bốn chân lẫn tai, vòi… có thể ngoe nguẩy được. Sứ giả đồ chừng đó là trạng Hiền bèn xuống ngựa, truyền lại ý Vua vời Trạng về kinh.
Nhưng Trạng Hiền không chịu, viện lẽ rằng, trước Vua cho Trạng kém lễ buộc về, nhưng lần này Vua cho vời Trạng lên cũng không giữ đúng lễ. Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi câu chuyện sứ giả nước ngoài đưa câu đố mà chưa ai giải được. Trạng Hiền nghe chỉ mỉm cười, trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ khi viên quan lên ngựa, Hiền mới xui đám trẻ cùng hát:
Tích tịch tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thì lấy giấy mà bưng
Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang
Tích tịch tình tang!
Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết trạng đã chỉ cách giải, vui vẻ trở về kinh.
Bài thơ chữ “Điền”
Tương truyền sứ thần Trung Hoa đem một bài thơ ngụ ngôn sang thử nhân tài nước Nam. Bài thơ như sau:
| Lưỡng nhật bình đầu nhật, Tứ sơn điên đảo sơn, Lưỡng vương tranh nhất quốc, Tứ khẩu tung hoành gian. |
Vua và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời Trạng nguyên Nguyễn Hiền (mà vua cho là bé đang ở nhà để rèn luyện thêm) đến để hỏi nghĩa.
Các quan đến quê mời gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn, Nguyễn Hiền nói với các quan: “Trước đây Vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính Vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời Trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa”.
Quan về tâu lại với Vua, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, Nguyễn Hiền mới chịu về kinh. Về đến kinh đô, vua đưa bài thơ của sứ Tàu ra, trạng Hiền liền giải thích như sau:
Câu thứ nhất có ý nói là hai chữ “nhật” (日) xếp ngang hàng nhau. Câu thứ hai nghĩa là bốn chữ “sơn” (山) xoay ngược xuôi. Câu thứ ba nói về hai chữ “vương” (王) xếp chồng lên nhau. Câu thứ tư là bốn chữ “khẩu” (口) xếp ngang dọc cạnh nhau. Tóm lại, tất cả bài thơ chỉ nói đến chữ “điền” (田), có nghĩa là ruộng đất.
Giải xong, trạng Hiền viết thư đưa cho sứ Trung Hoa, ông ta phải chịu là nước Nam có nhân tài.
Ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (1256), Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng rồi qua đời, hưởng dương 21 tuổi. Vua Trần Thái Tông thương tiếc truy phong ông là “Đại vương thành hoàng” và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Lời bàn:
Trạng Nguyên Nguyễn Hiền là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất thi đỗ của nước ta. Điều này minh chứng rằng dân tộc ta luôn luôn có những nhân tài, thần đồng không đợi tuổi, anh hùng hào kiệt thời nào cũng có, là niềm tự hào dân tộc.
Hiện nay, tại đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:
Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc
Vạn niên thiên tuế lập tam tài
Tạm dịch là:
Mười hai tuổi khai khoa hai nước
Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài
Sau khi ông mất, để tỏ lòng tôn kính một nhân tài mệnh yểu, vua cho đổi tên huyện Thượng Hiền thành Thượng Nguyên để kiêng tên húy của ông.
