Xuất thân của Tuệ Trung Thượng Sĩ
Trần Tung còn gọi là Trần Quốc Tung hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291), quê ở Nam Định, Việt Nam. Ngài là anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và cũng là anh vợ vua Trần Thánh Tông. Ngài là người có phẩm chất cao sáng, thuần hậu, vốn dòng tôn thất nên ngay từ khi còn trẻ Ngài đã được cử coi giữ đất Hải Dương.

Năm 1251, cha ông là Trần Liễu mất, Thượng Hoàng Trần Thái Tông cảm nghĩa đã ban cho ông tước Hưng Ninh Vương. Khi Vua Trần Thánh Tông nghe đạo đức của Ngài thâm hậu, mới mời Ngài vào cung để bàn việc đạo lý. Vua Thánh Tông thấy phong cách ngôn ngữ của Ngài rất siêu thoát nên tôn Ngài làm sư huynh, tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thượng Sĩ có nghĩa là người bậc thượng, là hàng Bồ Tát, là người mà mọi hành động đều lợi mình và lợi cả người, Tuệ Trung là hiệu. Vua Trần Thánh Tông tôn Ngài một bậc Bồ tát có đầy đủ trí tuệ.
Một mình vào giữa 30 vạn quân địch trá hàng
Trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ 3 (1287 – 1288), Quân Nguyên với đại quân 60 vạn người chia làm hai ngả tấn công Đại Việt.
Vua tôi nhà Trần tổ chức họp bàn quân sự để chọn kế sách đánh địch, không khí khẩn trương. Các vị tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo), Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hưng Ninh Vương Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung và các tướng quân khác đều có đủ để cùng đưa ra kế sách.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hiến kế:
“Muôn tâu bệ hạ! Hiện nay thế giặc Nguyên đông, lại với tâm lý phục thù sau hai lần thất bại. Trước thoạt nhìn có vẻ rất mạnh, nhưng theo Thần quân giặc đi đường xa mỏi mệt, hàng ngũ chưa chỉnh tề, lại quen khí hậu Phương Bắc, không quen thổ nhưỡng nước Nam, nên dùng kế Dĩ Dật Đãi Lao, lấy nhàn để đối phó với mỏi mệt, dùng quân Đại Việt ít hơn nhưng tinh nhuệ, có trật tự, lại được nghỉ ngơi, đánh địch đang mệt là thượng sách”.
Các chúng tướng khác nghe xong đều gật đầu đồng ý là cao kế. Duy chỉ có Tuệ Trung Thượng Sĩ là có ý kiến khác: “Muôn tâu bệ hạ! Chiến tranh dù dưới bất kỳ danh nghĩa nào đều là phi nghĩa. Chiến thắng của bên này là máu và sinh mạng của bên kia. Kèm theo đó là những mất mát không gì bù đắp được của người thân những chiến sĩ chết trận ở quê nhà. Trong trường hợp giữ thành Thăng Long thất thủ, người dân trong thành sẽ bị quân giặc giết hại rất nhiều”.
Vua Trần nghe vậy, liền nói: “Tuệ Trung Thượng Sĩ thật có lòng nghĩ cho chúng sinh, muôn dân trăm họ. Trẫm đồng ý với khanh như thế, nhưng chiến tranh giữ nước bảo vệ bờ cõi là việc nên làm, hy sinh trong chiến tranh là điều không tránh khỏi. Ngoài kế sách mà Hưng Đạo Vương đã đưa ra, chẳng hay khanh gia có cao kiến nào khác để tránh thương vong cho người dân, quân lính hai bên mà vẫn giành chiến thắng, bảo vệ được nước nhà”.
“Muôn tâu bệ hạ! Theo ý Thần, quân Nguyên chia quân hai ngả với 60 mươi vạn quân là muốn đánh nhanh thắng nhanh, dùng số lượng quân áp đảo để nhanh giành chiến thắng. Hành quân xa với số lượng nhiều như thế thì vấn đề lương thực chính là điểm yếu chí mạng của quân địch. Thần xin hiến một kế “Vườn Không Nhà Trống”, rút lui toàn bộ triều đình, người dân, lương thực, của cải của thành Thăng Long lùi sâu về phương Nam để bảo toàn lực lượng, vừa tránh giao tranh trực tiếp với địch, vừa cắt nguồn cung cấp lương thực, đồng thời tổ chức các cánh quân nhỏ phục kích các đường vận lương của địch. Quân địch đông, thiếu quân lương chúng sẽ lúng túng, lại không quen khí hậu Phương Nam, tất sẽ sớm tự thua mà lui quân, Đại Việt ta sẽ không đánh mà thắng”.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe xong, vuốt râu gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nhưng vẫn còn điều chưa rõ, liền nói: “Việc rút lui toàn bộ thành phải cần thời gian, trong khi thế giặc đang mạnh không biết Tuệ Trung Thượng Sĩ huynh có kế sách gì chăng?”.
“Muôn tâu bệ hạ! Thần có thêm một kế “Hoãn Binh”, làm sứ giả đi cầu hòa rồi giả hàng giặc, thương thuyết với chúng để kéo dài thời gian cho triều đình rút lui an toàn. Chỉ cần một người và đích thân Thần sẽ là người thực hiện kế sách này”.
Chư tướng nghe xong thì lo lắng cho an nguy của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản tuổi trẻ nhiệt huyết, văn võ toàn tài, lập nhiều chiến công giết giặc, đầy lòng yêu nước, căm hận quân Nguyên, xung phong xin nhận nhiệm vụ làm sứ giả. Vua Trần cũng tỏ vẻ đồng ý, nhưng Tuệ Trung Thượng Sĩ đã ngăn lại:
“Muôn tâu bệ hạ! Hoài Văn Hầu thật dũng cảm, nhưng để vào hang ổ địch, ngoài dũng cảm, cần có trí tuệ và tài ứng biến linh hoạt với tình thế. Hơn nữa, không chỉ là cầu hòa giặc mà qua đó còn thể hiện hào khí sức mạnh Đại Việt để giặc nể sợ lung lay tinh thần, biết khó mà lui. Thần nguyện đi chuyến này, đối diện hiểm nguy sinh mạng để mong tránh thương vong cho chúng sinh, muôn dân Đại Việt.”
Đến đây, tất cả chư tướng Vua tôi nhà Trần đều chắp tay kính phục trí tuệ, sự dũng cảm, tấm lòng hy sinh vì dân vì nước của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Trước khi lên đường, Vua Trần rưng rung nước mắt dâng ly rượu đào mời Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, rồi xúc động: “Trần Tung huynh thật là một vị Bồ Tát, hành động quên mình vì hạnh phúc của muôn dân. Trẫm xin thay mặt cho muôn dân Đại Việt ghi tạc trong lòng, nguyện noi theo gương huynh mà lo cho dân cho nước. Ly rượu đào này xin kính tiễn huynh, mong lại được trùng phùng cùng uống rượu đón huynh trở về”.
Vua trao Thánh chỉ rồi tiễn Ngài đi sứ.
Tuệ Trung Thượng Sĩ nhận rượu Vua ban và Thánh chỉ, đồng thời đọc lên một bài kệ, mong nhà Vua ghi nhớ để dùng cho việc trị nước, bảo vệ bờ cõi:
Hận thù diệt hận thù
Là điều không thể có
Tình yêu diệt hận thù
Là định luật ngàn thu
Tuệ Trung Thượng Sĩ một mình đi qua cổng trại của 30 vạn quân Nguyên vào gặp Trấn Nam Vương Thoát Hoan. Bằng trí tuệ, lòng dũng cảm và tài ngoại giao khi làm sứ giả vào tận trong lòng địch để thương thuyết, rồi giả hàng để thực hiện kế hoãn binh, có thời gian cho Vua tôi nhà Trần và toàn bộ người dân trong thành Thăng Long bảo toàn tính mạng, rút lui an toàn, tránh bị quân Nguyên Mông vào thành tàn sát. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung đã góp công lớn vào cuộc kháng chiến chông quân Nguyên Mông lần thứ ba của Đại Việt tạo bước ngoặt cho sự thất bại của chúng về sau.
Sau đại thắng Nguyên Mông, vì có công trong cuộc kháng chiến, Tuệ Trung Thượng Sĩ được phong làm Tiết Độ Sứ, giữ vùng biển Thái Bình thuộc tỉnh Thái Bình.
Lời bàn:
Là một cư sĩ nhập thế, làm quan trong triều vì dân vì nước, mỗi khi đất nước bị giặc xâm lăng, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung đã đảm nhận những nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm nhất. Khi làm sứ giả vào tận sào huyệt của địch đấu trí trên mặt trận ngoại giao, lúc làm tướng trực tiếp chỉ huy chiến đấu, ở cương vị nào ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lập nhiều công trạng. Ngài tham gia trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, là người có nhiều công lao trong kháng chiến. Tuệ Trung Thượng Sĩ lần hồi được phong đến chức Tiết Độ Sứ.
Ngài tuy là một vị Vương gia nhưng lấy đời sống đơn giản làm vui, sống ung dung trong sự thật, dành trọn thời gian để tiếp xúc và giác ngộ cho người khác chứ không vui trong chức lớn danh to. Ngài là một cư sĩ mà không bị công danh trói buộc. Đó là cái hạnh cao quí, ít người thực hiện được.
Với trí tuệ tuyệt vời, Tuệ Trung Thượng sĩ còn là Thầy dẫn đạo cho Vua Trần Nhân Tông và có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng tu hành, Phật tại tâm, không chấp vào có và không, tự tại, tận bổn phận, đạo và đời không tách biệt. Vị Vua mà sau này được dân chúng suy phong là Điều Ngự Giác Hoàng Trúc Lâm Đại Sĩ Trần Nhân Tông.
