Vua Lý Thánh Tông :”Ta Yêu Con Ta Cũng Như Lòng Ta Làm Cha Mẹ Dân”

Nghe đọc

Xót thương tù nhân vì hình ngục

Chuyện kể rằng vào một ngày mùa đông, vua Lý Thánh Tông (1023-1072) bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và cấp cơm ăn ngày hai bữa”.

Lý Thánh Tông

Lẽ thường, buổi thái bình Vua sáng tôi hiền như thời ấy thì có lẽ ít án oan sai. Mà dẫu có oan sai thì mấy người làm Vua nghĩ được đến đám dân đen hay tù phạm như thế. Thân Vua ở ngôi cửu ngũ, ăn ngon mặc đẹp, cung điện tráng lệ, phi tần mỹ nữ, bên tai có thừa lời hay ý đẹp của đám quần thần. Có nhiều ông Vua tham hưởng phú quý lại không sâu sát đời sống dân tình, chỉ qua lời sàm tấu của lũ nịnh thần mà cứ nghĩ nhân dân ai cũng được ấm no sung sướng. Cho nên, đấy là hoàn cảnh dễ bị mê nhất. Thế mà tiết đại hàn, Vua Lý Thánh Tông mặc áo ấm, sưởi than hồng, ngồi cung điện vẫn nghĩ đến những thân phận thấp hèn hơn cả dân đen là kẻ tù phạm trong lao ngục lạnh lẽo. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà chết vì đói rét, cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống. Đó chẳng phải là tâm đại từ bi thì là gì!

Vua Lý Thánh Tông giải thích rằng: “Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm”.

Như vậy, nguyên nhân của tội lỗi là do dân không hiểu biết. Mà không hiểu biết thì trước tiên phải giáo hóa, chứ không phải khi nào cũng nhăm nhe dùng hình pháp. Nếu nước loạn thì phải tạm dùng hình để dân biết sợ. Nhưng luật pháp đâu có thể có mặt ở mọi ngõ ngách của lòng người. Nên về lâu dài vẫn phải làm dân hiểu ra, trọng đức để tự ước thúc lấy mình, tức là hiểu rằng ngoài luật người còn có luật Trời nữa. Đó là luật pháp cao nhất.

Nhân từ với dân

Lòng nhân từ của Vua không chỉ dừng lại ở lời lẽ, trí tuệ của Vua đã tính đến những việc sâu xa. Khi mới lên ngôi, Vua đã ra lệnh đốt các công cụ tra tấn cai ngục có muốn dùng hình với tù phạm cũng khó. Ngoài ra, Vua còn ban cho các vị cai ngục lương bổng và thực phẩm đủ dùng cho cả năm để nuôi lòng thanh liêm nơi họ. Lần đầu tiên, Vua cấp lương bổng cho những quan lại giữ việc hình ngục. Trước đó các quan trong triều ngoài lộ không có chế độ lương bổng thường xuyên. Quan trong thỉnh thoảng được Vua ban thưởng. Quan ngoài được thu thuế ruộng đất đầm ao của dân địa phương mà tự cấp cho mình. Cho nên, Lý Thánh Tông khi nghĩ đến những tù nhân chịu đói rét trong tù thì cũng nghĩ đến cả những người canh giữ tù phạm ấy. Rõ ràng, chính sách khoan hồng của Vua sẽ khó thành nếu đám quan lại này không lương bổng. Vì biết đâu họ sẽ “khảo lương” từ đám tù nhân và người nhà. Cho nên, tâm Vua thật bao dung, và trí Vua thật sáng suốt, kín kẽ.

Nhà Vua còn xuống chiếu khuyến nông. Vua đi khắp nơi để xem dân gặt lúa. Gặp năm mất mùa hay sản xuất khó khăn còn miễn thuế và mở kho phát chẩn cho dân. Thực đúng là bậc Vua hiền có lòng dạ Bồ Tát.

Lời bàn:

Khi nước nhà điêu linh, dân tình đau khổ thì các vị minh quân xưa đều làm lễ tế Trời đất, tự thống trách rằng mình còn khuyết đức nên dân chúng mới gặp tai họa. Sở dĩ kiếp trước có đức lớn nên kiếp này mới được lên ngôi thiên tử. Đó là mệnh Trời đã giao phó cho bậc quân Vương đức dày. Cho nên, tai họa cho dân cho nước chính là lời cảnh cáo của Trời đất với bậc quân Vương. Lý Thánh Tông cũng là một vị Vua có đức sâu dày luôn luôn quay lại phản tỉnh, tự trách mình, nỗ lực sửa đổi, bao dung mẫu mực, được lòng dân và là vị Vua có tâm lượng Bồ Tát.