Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con ông Phạm Hữu Hiệu, người thôn Hạ Bì và bà Vũ Thị Duyên, người huyện Thanh Hà. Cha làm nghề chài lưới bên sông Quát, mẹ bán hàng nước ở bến đò. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần Triều Đệ Nhất Đô Soái Thuỷ Quân. Ông đã được vua quan nhà Trần và nhân dân gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).

Nhiệm vụ của Yết Kiêu là tìm cách đục thuyền của giặc trong đêm. Khi màn đêm buông xuống, Yết Kiêu tìm cách vượt qua hàng lính bảo vệ thuyền giặc rồi nhẹ nhàng đục thuyền giặc. Mỗi thuyền phải đục khoảng trên 20 lỗ, đục được lỗ nào lại phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút lút lại. Những cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Một đêm, Yết Kiêu đục được khoảng 30 thuyền giặc. Đến gần sáng khi đã đục đủ số thuyền đã định, Yết Kiêu liền kéo dây khiến những nút giẻ trôi ra khỏi thuyền, khiến hàng chục thuyền giặc bị đắm. Hoàn thành nhiệm vụ, ông lại nhẹ nhàng bơi về địa điểm an toàn. Có lần, Yết Kiêu bị vây bắt ở bãi sông. Ông núp mình dưới những bụi cây mọc lúp xúp và tránh sự lùng sục gay gắt của giặc. Chúng dùng kiếm đâm vào bụi cây, trúng đùi Yết Kiêu. Yết Kiêu cắn răng chịu đựng, khi kẻ thù rút kiếm ra, ông cố gắng chịu đau và dùng tay lau vết máu dính trên lưỡi kiếm để kẻ thù không phát hiện thấy.
Một lần khác, trong trận Bãi Tân, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dùng thuyền để chỉ huy trận đánh. Hôm đó có Yết Kiêu và Dã Tượng cùng đi. Đến bãi Tân, Trần Quốc Tuấn giao cho Yết Kiêu ở lại giữ thuyền, còn Dã Tượng thì theo hộ vệ. Quân của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không sao cản nổi bước tiến vũ bão của giặc, trở lại đường cũ thì có phần nguy hiểm nên Trần Quốc Tuấn định theo đường núi mà rút lui. Dã Tượng thấy vậy liền thưa: “Yết Kiêu chưa thấy Đại vương thì nhất định không chịu rời thuyền”. Trần Quốc Tuấn trở lại Bãi Tân, quả thấy Yết Kiêu đang cắm thuyền đợi, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy đến. Vừa mừng, vừa cảm động, Trần Quốc Tuấn nói: “Chim hồng hộc muốn bay cao tất phải nhờ ở sáu trụ xương cánh. Nếu không có sáu trụ xương cánh ấy thì cũng chỉ như chim thường mà thôi”. Nói xong, liền lên thuyền mà đi, giặc không sao đuổi kịp.
Yết Kiêu tuy là danh tướng tài giỏi lẫy lừng nhưng tính cách khiêm cung nhất mực. Tương truyền khi Yết Kiêu bị giặc Nguyên giăng lưới bắt sống trong lúc đang đục thuyền giặc cho chìm, khi bị giải trước mặt tên tướng giặc thì bị hạch hỏi: “Nước Nam có bao nhiêu người tài như ngươi?”. Ông liền trả lời chẳng chút đắn đo: “Nước tôi nhân tài vô số, như sao trên trời, tựa cát dưới bể vậy. Chỉ có tôi là hèn kém nhất nên mới bị bắt!”. Sau đó ông lừa quân giặc lúc sơ ý, ông lại nhảy xuống nước mất dạng. Yết Kiêu mất ngày 28 tháng Chạp năm Ất Sửu (1303), hưởng thọ 61 tuổi. Khi ông mất, vua Trần cho lập đền thờ ở bờ sông Hạ Bì quê ông, gọi là đền Quát.
Lời bàn
Sức sống mãnh liệt của dân tộc phải xuất phát từ lòng yêu nước trong mỗi cá nhân, mà Yết Kiêu là một đại diện tiêu biểu. Sự gan dạ, lòng trung thành của Ông đã khiến cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hết sức cảm phục. Không chỉ có vậy, sự khẳng khái hiên ngang, khí chất anh hùng ấy lại càng khiến cho lũ giặc vô cùng lo lắng. Trong thời khắc lâm nguy của đất nước, những người nông dân vốn hiền lành bình dị bỗng chốc trở thành những anh hùng. Ý chí kiên cường, tinh thần đoàn kết và lòng trung thành tuyệt đối ấy đã giúp cho đội quân của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bách chiến bách thắng, ba lần đánh thắng đạo quân xâm lược hung hãn nhất mọi thời đại, quét sạch lũ cướp nước ra khỏi bờ cõi, đem lại hòa bình ấm no cho nhân dân. Yết Kiêu đã trở thành vị anh hùng tận trung vì đại nghĩa, sánh ngang với các bậc hào kiệt trong thiên hạ, là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau.
